Thứ Sáu, 15 tháng 8, 2014

VÀI ĐIỀU VỀ KHÁI NIỆM VĂN MINH

Có nhiều quan điểm xung quanh vấn đề này.
- Có quan điểm cho rằng khái niệm Văn Hóa và Văn Minh mới chỉ xuất hiện từ thế kỷ XVIII.
- Nhiều quan điểm lại cho rằng thuật ngữ Cultura và Civilization đã được sử dụng bắt đầu phổ biến từ giai đoạn đầu thời đại Phục Hưng.
- Ở Trung Quốc Văn Minh được nhắc đến sớm trong Thượng Thư (Ngũ Kinh).
- Ở Việt Nam Văn Minh xuất hiện đầu tiên trong văn bản nào ? Hiện chưa có câu trả lời. Nhưng khái niệm Văn Hiến thì đã xuất hiện trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi.
văn minh vật chất của người Việt - Phan Cẩm Thượng
Văn Minh mặc dù được sử dụng phổ biến từ thời Phục Hưng nhưng Văn Minh với tính cách là khái niệm Chính Trị - Xã Hội thì lại xuất hiện vào thế kỷ XVIII khi các nhà khai sáng Pháp dùng quan niệm duy lý của mình để mổ xẻ và phân tích những Xã Hội đã đạt tới một trình độ nhất định về lý tính và công bằng.
Về mặt từ nguyên, civilization có gốc latinh civilis, nghĩa là thị dân, công dân, nhà nước. Về sau Văn Minh được hiểu một cách trừu tượng theo nhiều nghĩa khác nhau; trong đó có nghĩa bao trùm là chỉ một trình độ phát triển nhất định của XH về mặt vật chất và tinh thần. Thế kỷ XIX nói đến Văn Minh là nói đến những đặc trưng có giá trị của CNTB nói chung.
Tóm lại Văn Minh hiện nay được hiểu:
Theo từ điển tiếng Việt: văn minh là trình độ phát triển đạt đến một mức độ nhất định của xã hội loài người, có nền văn hóa vật chất và tinh thần với những đặc trưng riêng. Ví dụ văn minh Ai Cập, Ánh sáng của Văn Minh[1].
Theo từ điển Thuật ngữ lịch sử phổ thông: văn minh là toàn bộ những sản phẩm biểu hiện trình độ phát triển cao của nền văn hóa tinh thần và vật chất của xã hội loài người ở một giai đoạn nhất định. Ví dụ Văn minh Văn Lang – Âu Lạc, Văn minh Lưỡng Hà…[2].
Theo Tầm nguyên từ điển: văn là văn lý (điều lý, mạch lạc trong văn chương); minh là quang minh, sang sủa. Kinh Dịch: thiên hạ văn minh. Ngày nay nước nào văn hóa mở mang thì gọi là văn minh, chưa khai hóa gọi là dã man[3].
Tài liệu Tham khảo
1.     Dương Phú Hiệp, Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu văn hóa và con người Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2012.
2.     Bửu Kế, Tầm nguyên từ điển: cổ văn học và từ ngữ tầm nguyên, Nxb Thanh niên, 2005
3.     Phan Ngọc Liên, Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, Nxb Hà Nội, H.2008
4.     Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 1997.
Lý Viết Trường, K57 Lịch Sử


[1] Hoàng Phê (cb), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 1997, tr.1062.
[2] Phan Ngọc Liên, Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, Nxb Hà Nội, H.2008, tr.457.
[3] Bửu Kế, Tầm nguyên từ điển: cổ văn học và từ ngữ tầm nguyên, Nxb Thanh niên, 2005, tr.637.

[1] Phan Ngọc Liên, Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, Nxb Hà Nội, H.2008, tr.457.
[2] Bửu Kế, Tầm nguyên từ điển: cổ văn học và từ ngữ tầm nguyên, Nxb Thanh niên, 2005, tr.637.

Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2014

TRĂNG

Đêm nay trăng sáng lạ lùng
Có người ngồi nhớ mung lung một người
Nhớ gì ơi hỡi trăng ơi
Nhớ từng ánh mắt nụ cười chia phôi.
Trăng xưa nay đã xa rồi
Còn đâu nét đẹp của thời ấu thơ
Bao giờ cho tới bao giờ
Ngồi buồn tự hỏi ngu ngơ với lòng.
Giờ em đã chẳng còn mong
Chẳng thương chẳng nhớ trăng hồng ngày xưa
Bỗng đâu gió nhẹ mây mờ
Thổi qua che khuất trăng khờ của tôi.
Và em nay đã xa rồi
Em đi cùng với một đồi cỏ may
Hỏi rằng em có còn hay
Những chiều hai đứa dắt tay qua cầu.
Chiếc cầu nho nhỏ nước sâu
Bắc ngang con suối hai đầu tuổi thơ
Bên kia anh hái hoa mơ
Bên này em đợi em chờ em trông.
Tuổi thơ tuổi của má hồng
Tuổi xanh tuổi ngọc tuổi nồng tuổi say
Ngày nay em đã đổi thay
Đi về với gió với mây với người.
Em đi bỏ lại góc trời
Bỏ luôn một ánh trăng trời ngày xưa
Em đi đi tự bao giờ
Hỏi em còn nhớ hay giờ đã quên.
Em quên một ánh trăng nguyền
Quên luôn vị ngọt vị huyền đôi môi
Nhìn về phương ấy xa xôi
Trăng vàng cô quạnh lòng tôi bỗng sầu.
......Hà Nội, đêm trăng tròn, 11.08.2014..........
...................Lý Viết Trường..........
trăng quê

Thứ Bảy, 9 tháng 8, 2014

CON RỒNG THỜI LÝ VÀ BIỂU TƯỢNG PHẬT GIÁO

CON RỒNG THỜI LÝ[1] VÀ BIỂU TƯỢNG PHẬT GIÁO
Lý Viết Trường
K57, Lịch sử, ĐH KHXH &NV, HN
Trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam con rồng là hình tượng nghệ thuật rất phổ biến nhất, hình tượng con vật này luôn gắn bó với ý thức và lý tưởng của thời đại đã sinh ra nó. Thời Lý phật giáo Việt Nam phát triển đến đỉnh cao[2], vì vậy hình tượng con rồng cũng mang những biểu hiện của mỹ thuật phật giáo, điều này đã được chứng minh qua những di vật khảo cổ và lịch sử đã được phát hiện.
1.     Nguồn gốc con rồng
Có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc con rồng, cụ thể:
Theo ông Văn Tân thì nguồn gốc của rồng Việt có thể được sinh ra từ cá sấu cụ thể trong tạp chí nguyên cứu lịch sử có viết “Đầu tiên Tô-tem của người Việt có thể là một giống rắn nào đó – một giống bò sát nào đó. Giống rắn này có thể lớn và có mào, lại có thể có cả chân, ít nhiều điểm giống con rồng. Người Việt Nam xưa vẫn cho là một giống rắn thần thân dài, mào đỏ chót. Nhiều làng ở Việt Nam xưa đã thờ giống rắn thần đó (Kim Hoàng, Hậu Ái...)[3], ông Văn Tân lại tiếp tục chứng minh nguồn gốc con rồng từ cá sấu “Ngờ rằng con Giao Long mà người Việt xưa xăm vào mình có lẽ là con cá sấu[4]. Cùng quan điểm với ông Văn Tân thì có GS Phạm Huy Thông, GS Hà Văn Tấn “Như vậy theo chúng tôi, hình hai con cá sấu được cách điệu hài hào giao nhau trên búa đồng Đông Sơn là hình của con Giao Long. Phải chăng đây là hình tượng con rồng đầu tiên trong lịch sử nghệ thuật Việt Nam[5]. Tuy nhiên các quan điểm thể hiện ở những mức độ khác nhau GS Phạm Huy Thông viết “Chúng ta chưa khẳng định mười mươi rằng con rồng có tiền thân từ con cá sấu Đông Nam Á. Nhất là động vật học chưa xác định sự tồn tại của cá sấu ở vùng biển Bắc Bộ[6].
Chu Quang Trứ dựa vào hình thuyền trên trống và thạp đồng (nhất là thạp Đào Thịnh) có dáng dấp hình con rắn và con cá sấu để giải thích về nguồn gốc con rồng: “Phải chăng những loại trùng và hình thuyền trên (trên trống và thạp - LVT) đã gợi lên bóng dáng đầu tiên của con rồng Việt Nam, mà thiên thần thoại Lạc Long Quân nhắc đến dưới cái tên Giao Long[7]

Ảnh 1. Hình cá sấu (?) giao nhau và thuyền hình cá sấu (?) trên thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái)
Nhà sử học Ngô Sĩ Liên có quan điểm cho rằng con rồng có truyền thống lâu đời cụ thể truyền thuyết Con rồng cháu tiên quan niệm rằng Lạc Long Quân là dòng dõi nhà rồng “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó[8] vì vậy họ đã chia nhau 50 con theo cha về Nam Hải, 50 con về với mẹ. Còn tác giả Hoàng Lương lại ý kiến cho rằng con Giao Long không phải xuất phát từ loài cá sấu “Cho nên chúng tôi ngờ rằng con Giao Long của người Việt xưa kia thờ không phải là con cá sấu mà là một loài chăn nước cổ đại (python) có rất nhiều ở các sông ngòi Việt nam xưa kia[9]. Tác giả Lê Thanh Tịnh  lại cho rằng con rồng thực chất là một loài rắn mà thôi “Theo chúng tôi, có thể rồng cũng chỉ là rắn được cách điệu và thần thánh hóa mà thôi. Gần đây, theo ý kiến của một số nhà khoa học trên thế giới thì rồng chỉ là một thứ rắn biển đã dần dần bị tiêu diệt và quá xa lạ đối với chúng ta ngày nay[10]. Còn tác giả Phạm Huỳnh Hương Trang thì khẳng định cá sấu là Lạc Long Quân và phân rồng thành các loại sau[11]:
1.     Rồng cá sấu
2.     Rồng sấu rắn
3.     Rồng rắn với đầu cá sấu
4.     Rồng mèo, dựa trên một mảnh sành ở Bắc Ninh hình dáng rồng Đại Việt
5.     Rồng thời Ngô, dựa vào hình trên một viên gạch phát hiện ở Cổ Loa
6.     Rồng đầu sư tử, dựa vào đồng tiền Cảnh Thịnh
7.     Rồng thời Nguyễn
Tuy nhiên theo PGS. Hoàng Văn Khoán thì ở trên tác giả Hương Trang đã không thống nhất về cách phân loại, một số thì theo hình dáng, một số lại theo triều đại. Tư liệu đưa ra không căn cứ như: miếng sành có con rồng mèo lấy ở di chỉ nào, niên đại ra sao ?, rồng Ngô trên viên gạch Cổ Loa nhưng địa bàn Cổ Loa rất rộng, có nhiều địa điểm với niên địa khác nhau, vậy viên gạch đó thuộc thời kỳ nào ... Tác giả đã bỏ sót nhiều tư liệu cơ bản. Vì vậy độ tin cậy thấp[12].
Theo Nguyễn Văn Hiệu thì rồng là vật tổ của dân tộc: “Vật tổ của dân tộc ta là con cá sấu. Lạc Long Quân là cha rồng của dân tộc ta[13]. Tuy nhiên quan điểm trên này khó có thể trả lời được cây hỏi: Nếu rồng Việt xuất hiện từ thời Lạc Long Quân vậy tại sao trong suốt thời kỳ bắc thuộc lại không thấy xuất hiện bóng dáng con rồng ?
Tôi đồng ý với quan điểm của PGS.TS Hoàng Văn Khoán rằng con rồng có từ thời Lý và gắn với truyền thuyết về việc nhà vua gặp rồng vàng bay lên trong khi đang dời đô từ Hoa Lư ra Đại La: “Con rồng xuất hiện sớm nhất là con rồng thời Lý. Lý Công Uẩn lên làm vua, thấy Hoa Lư chật hẹp bèn quyết định dời đô về Đại La. Trên đường đi, Lý Thái Tổ thấy một đám mây vàng bay lơ lửng, nhà vua cho là điềm tốt, bèn đặt tên cho thủ đô mới là Thăng Long. Các nhà mỹ thuật đương thời sáng tác một con rồng đang bay theo ý tưởng của vua là Thăng Long – Rồng bay lên[14].
2.     Đặc điểm con rồng thời Lý
Con rồng thời Lý có những nét đặc trưng riêng có thể phân biệt được với con rồng của các thời khác, cụ thể :
Đầu rồng thời Lý

Ảnh 2. Gạch trang trí chạm hình rồng cuốn và đài sen
Mào, mũi và bờm là những bộ phận được cấu tạo rất sinh động bằng những đường nét rất tự nhiên. Mào chùm lấy toàn bộ môi trên và quyện với răng nanh xoắn hình đám mây bồng bềnh đang bay. Bờm tỏa ra từ sau gáy hướng về phía sau lưng trong tư thế phấp phới như có gió thổi. Túm râu con rồng mềm mại như làn sóng hướng về phía trước thu nhỏ lại. Mũi rồng là những đường cong xếp chồng nhau tạo ấn tượng về nguồn nước. Miệng thường nhe ra để lộ hai hàm răng đang ngậm hoặc vườn ngọc. Râu và mào rồng hướng về phía trước tạo nên một hình ảnh giống chiếc lá bồ đề.
Thân rồng thời Lý
Thân rồng Lý có nét nổi bật không thời nào có đó là thân rồng hình tròn lẳn, da trơn, to từ cổ nhỏ dần đến đuôi, không có vảy.
Thân rồng thường có 11 đến 13 khúc, các khúc có cung độ đều nhau và uốn lượn hình thắt miệng túi đáy tròn, miệng thắt nhỏ hơn.
Thân rồng trong tư thế mềm mại tự nhiên như đang bay, có lẽ do nguồn gốc xuất thân đã quy định đến đặc điểm này của con rồng.
Chân rồng thời Lý
Rồng có 4 chân. Chân rồng thời Lý có 2 loại là loại 3 móng vuốt và loại có 5 móng vuốt.
Dù loại có 3 móng vuốt hay 5 móng vuốt cũng đều nhỏ nhắn, có 3 đốt và có móng vuốt sắc như móng chim.
Ở khuỷu chân có một cụm lông hình chỏm mây bay về phía sau mềm mại.
3.     Yếu tố Phật giáo trong con rồng thời Lý
Rồng gắn với đức Phật
Thích Ca Mâu Ni (释迦牟尼) sinh vào khoảng 565 – 485 TCN, theo Phật giáo Nam truyền thì Thích Ca sinh khoảng 624 – 544 TCN hoặc khoảng 623 – 543 TCN. Thích Ca Mâu Ni là người sáng lập ra Phật giáo. Vốn tên gọi là Tất Đạt Đa, họ Kiều Đạt Ma, thuộc dòng họ sát đế lợi[15].
Đức Phật có mối quan hệ gần gũi với con rồng, truyền thuyết kể lại: Khi Thích Ca Mâu Ni sinh ra, có 9 con rồng phun nước cho ngài tắm, rồi ngài bước lên 7 đóa sen, một loài hoa của phật[16].
Rồng gắn với hoa sen (hay còn gọi là liên hoa - 莲花)
Hoa sen sở dĩ được coi là loài hoa của Phật vì nó có những đặc tính cơ bản sau đây[17]:
1.     Tính không nhiễm
Loài sen thường mọc ở những nơi ẩm ướt và có nước như sông, ao, hồ, vũng nước… nhưng thân hoa không hề bị vướng bẩn bởi những thứ dơ bẩn của môi trường xung quanh.
2.     Tính tinh khiết
Hoa sen có những đặc điểm rất đặc biệt, hoa của nó rất đẹp, thơm và quyến rũ nhưng không hề có một loài động vật có thể lại gần nó, dấy bẩn lên thân thể của nó, bởi lẽ trong nhị hoa sen có chất thanh trùng nên những loài động vật rất kỵ khi đến gần.
3.     Tính thanh trừng
Hoa sen có đặc điểm rất hay đó chính là tính khử, nơi nào có sen thì nước ở đó sẽ rất trong bởi lẽ hoa sen có tính khử và lọc nước. Vì vậy người ta thường nuôi sen ở trong ao, hồ… có lẽ là vì đặc tính này.
4.     Tính tái sinh
Hoa sen cũng như một vài loài hoa khác thường sẽ tàn và lụi đi vào mùa đông, nhưng mùa xuân lại vươn lên mạnh mẽ. Nhiều hạt sen, củ sen có thể bị chôn vùi dưới đất trong môi trường thích hợp như yếm khí… nó có thể tồn tại được hàng trăm thậm chí cả ngàn năm, đến khi khơi ra sen vẫn vươn lên mạnh mẽ, điều này thể hiện sức sống dẻo dai trường tồn của sen.
5.     Tính thanh tao về hương vị
Hoa sen vừa có hương lại vừa có sắc. Hoa sen thường có 2 màu, màu trắng và hồng. Tuy nhiên hương sen thường thoang thoảng, dịu dàng chứ không nồng nặc, tạo cho người ta có cảm giác an lành khi được ngửi và ngắm loài hoa này.
6.     Tính hành trực và ngẩu không
Thân thẳng, từ khi sinh ra thân sen đã mang một dáng hình thẳng. Trong ruột rỗng không, rỗng không mà đứng vững, rỗng không mà vẫn vươn lên kiêu hãnh bất chấp sự đời.
7.     Tính bồng thực
Hoa sen khi mới nở đã có gương, cá hạt. Đó là một điều đặc biệt nữa ở hoa sen. Nó thể hiện quy luật nhân quả trong phật giáo, giao nhân nào gặp quả nấy. Có nhân có quả hiện hữu.
8.     Tính hy sinh
Người ta thường dùng lá sen để gói cốm, dùng củ, hoa, lá non, thân sen để làm thức ăn, hạt sen ăn rất ngon… những bộ phật trên sen có thể dùng làm thức ăn.
Vì những đặc tính tốt đẹp trên mà loài hoa này được dùng làm biểu tượng của Phật giáo như: Liên hoan ấn, liên hoa bộ tâm quỳ, liên hoa diện kinh, liên hoa đạc, liên đài, liên đăng hội yếu, liên hoa bộ tam muội da ấn, liên hoa hợp chưởng, liên hoa lạc, liên hoa lậu, liên hoa ngôn âm, liên hoa niệm tụng, liên hoa phục, liên hoa quyền, liên hoa thai tạng, liên hoa thắng hội, liên hoa tọa…
Con rồng thường được trang trí cùng hoa sen như rồng dâng sen lên Phật, rồng trên bệ đá hình hoa sen, rồng trong lá sen… vì vậy có thể nói rằng con rồng thời Lý có mối quan hệ với Phật giáo.

Rồng gắn với lá đề
Cây bồ đề dịch âm tiếng Phạn là Bodhidruma hoặc Bodhivrksa hay còn dịch là giác thụ, đạo thụ.
Tương truyền đức phật Thích Ca Mâu Ni đã đến gốc cây tất bát la ngồi kết già phu tọa và xây dựng nên các giáo lý chủ yếu của Phật giáo là tứ diệu đế, thập nhị nhân duyên… Tín đồ phật giáo coi cây bồ đề là cây tốt lành[18].
Trong mỹ thuật thời Lý hình ảnh con rồng gắn với lá đề rất phổ biến, điều này càng chứng minh con rồng thời Lý có quan hệ mật thiết với phật giáo.

Ảnh 6. Gạch trang trí chạm hình lưỡi long và lá đề (ảnh Nguyễn Tào)




Ảnh 7. Rồng trong lá đề (ảnh Nguyễn Tào)

                  Ảnh 8. Rồng Lý trên lá đề (ảnh Nguyễn Tào)

      Ảnh 9. Rồng Lý trên ống ngói hình lá đề và rồng bên lá đề (ảnh Nguyễn Tào)
Rồng gắn với chùa chiền
Ở các ngôi chùa hình tượng con rồng xuất hiện ở nhiều nơi như trên nóc, trên kèo cột, trên cầu thang… mỗi thời hình tượng rồng lại có một phong cách khác nhau.
Ngôi chùa điển hình của Việt Nam là chùa Diên Hựu, được xây từ thời vua Lý Thánh Tông gắn với giấc mộng gặp Quan Âm ngồi trên tòa sen đến dẫn vua lên đài. Ngôi chùa được xây theo hình một bông sen nở nghìn cánh làm tòa sen của Quan Âm.
Trên nóc ngôi chùa thường bao giờ con rồng cũng mang đặc điểm của triều đại nó được xây, và chùa một cột cũng vậy. Nhưng sau nhiều lần tu sửa hiện nay ta thấy trên nóc ngôi chùa là con rồng thời Nguyễn với kiểu song long triều nguyệt.


4.     Kết luận
Như vậy chúng tôi có thể khẳng định rằng con rồng xuất hiện từ thời Lý với truyền thuyết dời đô của Lý Công Uẩn. Con rồng thời Lý có những nét khác biệt với con rồng của các thời sau, điều này được phản ánh qua các bộ phận trên cơ thể của nó như đầu, thân, chân.
Con rồng thời Lý có mối quan hệ chặt chẽ với Phật giáo, nó đi liền với các hình tượng của Phật giáo như đức Phật, hoa sen, lá đề, chùa chiền… điều đó cũng phần nào thể hiện hệ tư tưởng của thời Lý, một thời đại coi Phật giáo là quốc đạo.
Tuy nhiên có một vấn đề đặt ra ở đây là: Con rồng có phải ở thời kỳ nào cũng đều gắn liền với Phật giáo hay không ? Nếu có thì ở triều đại nào ? Nếu không thì từ triều đại nào con rồng bắt đầu thoát khỏi ảnh hưởng của Phật giáo ?

Tài liệu tham khảo
1.     Nguyễn Văn Hiệu, Từ hình tượng thực của con rồng Việt Nam đến tên Lạc Long Quân trong tiếng Việt, Tạp chí Khảo cổ học, Số 2, 1983.
2.     Hoàng Văn Khoán, Nguồn gốc con rồng, Thông báo Khoa học, Số 2, 2013.
3.     Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Kí Toàn Thư, Tập I, Nxb Khoa Học Xã Hội Hà Nội, H.2011.
4.     Hoàng Lương, Bàn góp thêm vấn đề Tô – Tem của người Việt nguyên thủy, KCH, Số 5, Tháng 7 năm 1959.
5.     Phạm Huy Thông, Về gốc tích con rồng, Tạp chí Khảo cổ học, Số 1 – 2, 1988.
6.     Phạm Huỳnh Hương Trang, Rồng và tiên trong lịch sử đồ tượng Việt Nam, Tuổi trẻ Chủ nhật, Số 12, 2001.
7.     Trang http://www.hoangthanhthanglong.vn/gach-ngoi-thoi-ly/1348, cập nhật ngày 20/06/2014.
8.     Lê Thanh Tịnh, Một hướng tìm hiểu nguồn gốc ngữ nghĩa của từ tố “lạc”, Tạp chí khảo cổ học, số 19, năm 1976.
9.     Chu Quang Trứ, Sáng giá Chùa xưa – Mỹ thuật Phật giáo, Nxb Mỹ thuật, 2012.
10.            Chu Quang Trứ, Mỹ thuật Lý - Trần, Mỹ thuật Phật giáo, Nxb Mỹ Thuật, 2012.
11.            Chu Quang Trứ, Văn hóa Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, 2 tập, 2002.
12.            Lý Viết Trường, Ý nghĩa hoa Sen trong đạo Phật, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Số 2, 2014.
13.            Lao Tử - Tịnh Lê, Từ điển Nho – Phật – Đạo, Nxb Văn học, 2001.
                                                                  Hà Nội, 20/06/2014
                                                                     Lý Viết Trường
                                                    K57, Lịch Sử, ĐH KHXH&NV, HN
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Số 4 - 2014.



[1] Thời Lý tồn tại từ 1010 đến 1225, với 215 năm, trải qua 9 đời vua: Lý Công Uẩn (1010 – 1028); Lý Thái Tổ (1028 – 1054); Lý Thánh Tông (1054 – 1072); Lý Nhân Tông (1072 – 1127); Lý Thần Tông (1128 – 1138); Lý Anh Tông (1038 – 1175); Lý Cao Tông (1176 – 1210); Lý Huệ Tông (1211 – 1225); Lý Chiêu Hoàng (1224 – 1225).
[2] Hoàng Văn Khoán, Nguồn gốc con rồng, Thông báo Khoa học, Số 2, 2013, tr.57.
[3] Văn Tân, Vấn đề Tô – Tem của người Việt, Tạp chí Nguyên cứu lịch sử, số 2, 1959.
[4]. Văn Tân, Vài ý kiến đối với nhận định của ông Đào Duy Anh về vấn đề Tô – Tem của người Việt nguyên thủy, Tạp chí Nguyên cứu lịch sử, số 2, 1959.
[5] Hà Văn Tấn, Trở lại vấn đề Tô – tem của người Việt, Tạp chí Nguyên cứ lịch sử, Số 4, 1959.
[6] Phạm Huy Thông, Về nguồn gốc con rồng, Tạp chí Khảo cổ học, Số 1 – 2, 1988, tr.
[7] Chu Quang Trứ, Mỹ thuật Lý – Trần mỹ thuật Phật giáo, Nxb Mỹ thuật, 2012, tr.261.
[8] Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Kí Toàn Thư, Tập I, Nxb Khoa Học Xã Hội Hà Nội, H.2011.
[9] Hoàng Lương, Bàn góp thêm vấn đề Tô – Tem của người Việt nguyên thủy, KCH, Số 5, Tháng 7 năm 1959.
[10] Lê Thanh Tịnh, Một hướng tìm hiểu nguồn gốc ngữ nghĩa của từ tố “lạc”, Tạp chí khảo cổ học, số 19, năm 1976.
[11] Phạm Huỳnh Hương Trang, Rồng và tiên trong lịch sử đồ tượng Việt Nam, Tuổi trẻ Chủ nhật, Số 12, (1-4-2001).
[12] Xem thêm: Hoàng Văn Khoán, sđd, tr.53 – 54.
[13] Nguyễn Văn Hiệu, Từ hình tượng thực của con rồng Việt Nam đến tên Lạc Long Quân trong tiếng Việt, Tạp chí Khảo cổ học, Số 2, 1983, Tr.62 – 66.
[14] Hoàng Văn Khoán, Sđd, tr.56.
[15] Lao Tử - Thịnh Lê (chủ biên), Từ điển Nho - Phật - Đạo, sách dịch, Nxb Văn học, 2001, tr.1431.
[16] Hoàng Văn Khoán, Nguồn gốc con rồng, sđd, tr.58.
[17] Xem thêm: Lý Viết Trường, Ý nghĩa hoa Sen trong đạo Phật, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Số 2, 2014.
[18] Lao Tử - Thịnh Lê, Từ điển Nho - Phật – Đạo, Sđd, tr.121.