Thứ Hai, 23 tháng 6, 2014

BÀN THÊM VỀ HUYỀN THOẠI LẠC LONG QUÂN VÀ ÂU CƠ

BÀN THÊM VỀ HUYỀN THOẠI LẠC LONG QUÂN VÀ ÂU CƠ
Hoàng Văn Khoán[1]
Ở nước ta cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới đều có một kho tàng huyền thoại phong phú. Huyền thoại không phải là lịch sử, nhưng khi chữ viết ra đời, lịch sử có một giai đoạn huyền thoại. Lạc Long Quân kết hôn với Âu Cơ, sinh ra 100 trứng, đẻ ra 100 người con trai… Đấy là huyền thoại. Huyền thoại là cái vỏ bên ngoài bọc lấy cái lõi lịch sử bên trong. Vậy cái lõi lịch sử trong câu chuyện huyền thoại này là gì ?
Trong bài viết “Rồng và tiên trong lịch sử đồ tượng Việt Nam” (Phạm Quỳnh Hương Trang, 2001), Phạm Quỳnh Hương Trang đã không bóc tách được các yếu tố thần thoại, cho Lạc Long Quân và Âu Cơ là nhân vật có thật. Cũng như thế Nguyễn Minh Hiệu trong bài “Từ hình tượng thực của con rồng Việt Nam thủa ban đầu đến tên gọi Lạc Long Quân trong tiếng Việt” (Nguyễn Minh Hiệu, 1983), tác giả cũng khẳng định Lạc Long Quân là cha rồng của dân tộc.

Mọi người đều biết rằng con người bước ra khỏi thế giới động vật đi lang thang để kiếm sống bằng nghề hái lượm và săn bắt. Đó là hai nghề đầu tiên của bất kỳ một dân tộc nào. Tại các hang động và dưới mái đá, nơi ở của người Hậu kỳ Đá cũ và Sơ kỳ Đá mới người Sơn Vi, Hòa Bình, Bắc Sơn đã để lại các vết tích của hai nghề đó: Phấn hoa các loài thảo mộc, các loại hạt na, hạt mận, hạt trám… cùng với công cụ như bàn nghiền hạt. Các loại vỏ ốc (ốc núi, ốc suối), xương răng các loài động vật bên cạnh công cụ lao động bằng đá do họ chế tạo.
Những tán dư của nghề hái lượm vẫn tồn tại đến ngày nay. Người ta vào rừng lấy măng trúc măng mai, hái sim, đào củ… về bán ở các chợ. Người Tây Nguyên không có thói quen trồng vườn, phụ nữ thường vào rừng hái lá cây về giã nẫu canh. Người Hương Sơn, Hà Tĩnh có món ăn đặc sản là nộm hoa chuối rừng…
Nghề hái lượm không phải dễ dàng, phải trèo đèo lội suối, chống chọi với thú dữ để dành giật sự sống. Do đó họ không thể đi riêng lẻ mà phải tập hợp nhiều người thành một cộng đồng. Đứng đầu cộng đồng này là một người đầu đàn mà trong huyền thoại gọi là tiên (Con rồng cháu tiên). Chữ tiên theo hán tự một bên là bộ nhân đứng ( ) nghĩa là con người, bên phải là bộ chữ sơn () là núi. Tiên () có nghĩa là người trên núi. Đó là những bộ tộc làm nghề hái lượm, do một người đàn bà đứng đầu mà các nho sĩ mệnh danh là Âu Cơ.
Song song với nghề hái lượm là nghề săn bắt các động vật dưới nước. Đó là những người làm nghề chài lưới. Cũng như nghề hái lượm, nghề chài lưới cũng có những cộng đồng người.
Ở Đồ Sơn, Hải Phòng có địa danh 8 làng vạn – Bát Vạn. Ban ngày mỗi người đều một phương. Tối đến thuyền đậu san sát nhau tạo thành những làng vạn chài ven biển.
Trong các di chỉ từ thời đại đá, đồng, sắt, khảo cổ học đã phát hiện vô số các dụng cụ đánh bắt như lưới câu, chì lưới, lo ngạnh, xỉa… chưa kể đến các loại nơm, đó, vó, lừ bằng tre nứa đã bị mai một. Ở dưới biển có rất nhiều loại cá, đặc biệt có loài cá hung dữ như cá sấu, cá he, cá mập. Chúng sống thành từng đàn thường đến ven biển kiếm mồi gây nguy hiểm tính mạng cho dân chài và những cư dân sống ven biển. Ở Vịnh Hạ Long có loại cá he nếu mắc vào lưới, nó phá tung lưới, có khi lật đổ cả thuyền.
Mặc dù vậy, chúng vẫn là nguồn thực phẩm quan trọng và là đối tượng săn bắt của cơ dân cổ. Ở di chỉ Cái Bèo thuộc đảo Cát Bà có niên đại thuộc Sơ kỳ Đá mới, khảo cổ học đã phát hiện hàng ta xương cá, xương to như xương trâu.
Trong thời kỳ chống Pháp, dân chài Nam Bộ còn đánh bắt cá sấu, chói từng con kết thành bè để chở đi bán chỗ khác. Ngày nay cá sấu đang trên đường thuần dưỡng.
Muốn đánh bắt động vật dưới biển có hiệu quả, dân chài phải xăm mình những hình ảnh và màu sắc giống chúng. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, ngoại kỷ (Quyển 1) có ghi “Người nước Văn Lang làm nghề đánh cá bị thuồng luồng làm hại. ‘Vua’ bảo lấy mực vẽ hình thủy quái lên mình. Từ đấy thuồng luồng không làm hại nữa”. Khi Trần Nhân Tông lên ngôi cũng khắc hình rồng vào vế đùi để không vong bản. Bởi dòng dõi nhà Trần xuất thân từ nghề đánh cá.
Cái tên Lạc Long Quân mới được đặt ra ít nhất cũng có từ thế kỷ 17 khi Nho học nước nhà phát triển. Các nhà Nho thường đặt tên địa danh, nhân vật hoặc các hiện tượng tự nhiên bằng Hán Việt. Vĩ dụ ở xã Diễn Thọ, Diễn Châu, Nghệ An có ngọn núi, dân địa phương gọi là núi Yên Ngựa, các thầy Nho ở làng gọi là Mã Yên Sơn. Giữa cánh đồng có một lèn đá hai vai giống người, dân gọi là lèn hai vai, các cụ đồ gọi là Lưỡng Kiên Sơn… Cái tên Lạc Long Quân cũng vậy, thời tiền sử con người chưa có danh tính, lại chưa có vua. Lạc Long Quân là một từ Hán Việt. Long ở đây không phải là rồng, long cũng không đồng nghĩa với cá sấu. Long ở đây là hình một người dân chài xăm mình đứng đầu tộc người đánh cá dưới biển. Cá sấu trên rìu và qua Đông Sơn là đối tượng săn bắt được nghệ thuật hóa.
Không rõ căn cứ vào đâu Văn Tân cho rằng Tô Tem Việt là rồng rắn. Khi nhà Hán sang thì rắn biến thành rồng. Ông cho rằng tục xăm mình cũng có ý nghĩa Tô Tem, về sau có tính giai cấp và phổ cập (Văn Tân, 1959).
Cũng làm nghề đánh bắt, nhưng có những bộ tộc chuyên săn bắt các loài thú hoang dã. Trong hang động người tiền sử còn để lại xương cốt các loại động vật nhỏ như chim, chuột, chồn, cáo… đến xương răng những loài thú lớn như voi, hổ, tê giác… Đó là thành quả của nghề đánh bắt thú hoang dã. Để dễ dàng tiếp cận với hoang thú, những thợ săn phải hóa thân bằng lông chim, lông thú, lá cây, mặt nạ. Nghề săn được tiền hành bằng nhiều thủ pháp khác nhau: đi săn bằng thuyền, nhử mồi cho cá sấu lên bờ rồi bao vây, săn đuổi. Việc săn bắt hoang thú cũng cần có các bộ tộc, liên minh bộ tộc. Đương nhiên săn bắt cũng phải có người đứng đầu, có sức khỏe, có mưu kế, phải biết tổ chức. Người đó được các bộ tộc tôn sùng theo nghĩa dân gian là Đại ca – người Hùng, theo thư tịch gọi là thủ lĩnh, về sau gọi là vua, vua Hùng.
Vua Hùng không phải là con đẻ của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Vua Hùng là một con người thực sự, một thủ lĩnh đứng đầu các liên minh bộ tộc, đã có công khai thiên lập địa, lập ra nhà nước sơ khai – nhà nước Văn Lang. Cơ sở vật chất của nhà nước Văn Lang cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới thuộc về thời đại đồ đồng.
Địa bàn của nhà nước Văn Lang lúc đầu ở vùng trung du Phú Thọ và Vĩnh Phúc ngày nay. Người kế tục vua Hùng là An Dương Vương mở rộng địa bàn ra cả vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Nhà nước Văn Lang – Âu Lạc bao gồm nhiều bộ tộc: Săn bắt, hái lượm, chài lưới, trồng trọt, các nghề thủ công như chế tạo đá, luyện đồng, luyện sắt…
Ngày nay tất cả các dân tộc trên khắp mọi miền đất nước đến ngày mồng 10 tháng ba về đền Hùng để tưởng nhớ công ơn dựng nước của Hùng Vương tổ phổ.
Các vua Hùng đã có công dựn nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước
(Chủ tịch Hồ Chí Minh)
Một số vấn đề rút ra:
1.     Dân tộc Việt Nam hiện nay có nguồn gốc từ đâu ?
Các sử gia phong kiến, đặc biệt là các học giả phương Tây dựa vào tài liệu thư tịch Trung Quốc thuần túy mà cho rằng người Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc hoặc Ấn Độ tới. Một số người khác cho huyền thoại là có thật, cho dân tộc ta là do Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra, có nguồn gốc con rồng cháu tiên.
Tài liệu khảo cổ học tích lũy hàng trăm năm nay có thể dựng lại quá trình hình thành dân tộc Việt Nam một cách đúng đắn nhất. Bước vào thời kỳ Cánh Tân (Pleistocene) cách đây mấy chục vạn năm con người đã xuất hiện trên vùng đất Việt Nam. Những công cụ đầu tiên như rìu tay, các mảnh tước Levalois, Clacton đã phát hiện ở Núi Đọ, Quan Yên I, Núi Nuông ở Thanh Hóa và các địa điểm Hanh Gòn, đồi Sáu Lé, suối Đa, Núi Cẩm Tiên, Cầu Sắt, Gia Tân… ở miền Đông Nam Bộ là những bằng chứng chứng minh Việt Nam là một trong những điểm xuất hiện loài người sớm ở Châu Á và Đông Nam Á. Việc sáng tạo ra các công cụ lao động là điểm đặc biệt nói lên con người tác khỏi động vật.
Tại các hang động, khảo cổ học đã phát hiện răng người hóa thạch, như ở hang Thẩm Hai và thẩm Khuyên ở Lạng Sơn, đặc biệt là hang Thẩm Ồm ở Nghệ An đã phát hiện 5 răng người hóa thạch có cả công cụ, xương cốt một quần thể ở vùng nhiệt đới. Các nhà nhân chủng học đó là răng người vượn Erectus (vượn người đứng thẳng) đang trong quá trình chuyển hóa thành người Homo Sapiens (người khôn ngoan hay người hiện đại).
Nền văn hóa vật chất của những con người này là những công cụ ghẽ đẽo kiểu Chopping và Chopping – Tool niên đại Hậu kỳ Đá cũ thuộc nền văn hóa Sơn Vi có niên đại từ 3 vạn đến 1 vạn năm. Cho đến nay, khảo cổ học đã phát hiện 140 điểm thuộc văn hóa này, tập trung ở các thềm của các lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, sông Chu, tập trung nhiều nhất ở vùng Phú Thọ.

Nối tiếp văn hóa Sơn Vi từ 18.000 năm đến 3.500 năm ở Việt Nam đã diễn ra một cuộc cách mạng đá mới, mà nội dung của nó là hoàn thiện kỹ thuật ghè đẽo, tu chỉnh ép đến các kỹ thuật cưa, khoan, mài, tiện, đánh bóng tạo ra nhiều nghề thủ công như chế tác đồ đá, làm gốm, xe sợi, dệt vải, làm mộc, đan lát, đa dạng hóa các nghề kiếm sống như săn bắn, hái lượm, đánh cá, đặc biệt là làm nông và chăn nuôi. Bức tranh sống động về thời kỳ này được biểu hiện trên một loạt văn hóa: văn hóa Hòa Bình – Bắc Sơn, văn hóa Quỳnh Văn, văn hóa Bàu Tró, văn hóa Hạ Long, văn hóa Mai Pha, văn hóa Hà Giang, văn hóa Biển Hồ. Cuộc cánh mạng đá mới ở Việt Nam đã dẫn đến việc chinh phục thiên nhiên, chiếm lĩnh đồng bằng và tiến ra biển.
Có thể nói cuộc cách mạng đá mới tạo ra tiền đề cho sự xuất hiện một cuộc cách mạng mới, cách mạng luyện kim. Phát minh kỹ thuật đúc đồng luyện sắt tại chỗ tạo ra nhiều công cụ sản xuất và vũ khí sắc bén làm phát triển một nền nông nghiệp trồng lúa đã phát sinh trước đó, nay lan tỏa cả vùng trung du, vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Dân số phát triển, định cư thành những làng mạc trù phú. Khảo cổ học đã phát hiện 70 làng, có làng ruộng từ 2 – 3 vạn m2 như Phùng Nguyên, Văn Điển. Cuối thời đại đồ đồng có làng rộng tới 5 – 6 vạn m2 như Chiến Vậy.
Làng mạc là cơ sở hạ tầng, là tế bào của nhà nước sơ khai – nhà nước Văn Lang – Âu Lạc. Nền văn hóa vật chất mà lớp người này để lại hết sức đa dạng và phong phú bao gồm công cụ sản xuất, công cụ chài lười, săn bắt, các loại vũ khí bằng đá, đồng, sắt, các loại đồ trang sức bằng xương, bằng sừng, bằng ngọc, bằng thủy tinh, các loại đồ gốm gia dụng như nồi niêu, ấm chén, bát, đĩa…  Một đời sống tinh thần như nhảy múa, trang phục và táng thức mang ý nghĩa tâm linh, tôn giáo.
Tất cả đã tạo nên một chuỗi hệ thống văn hóa mang tính bản địa: văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun, văn hóa Đông Sơn.
Dân tộc Việt Nam anh hùng ngày nay không phải từ đâu tới, mà là hậu duệ của các lớp tiền bối nói trên đã từng sinh ra trên đất nước Việt Nam đã khai phá rừng núi, hải đảo, chống thiên nhiên, chống giặc giữ làng để lại một nền văn hóa có một bề dày lịch sử đầy bản sắc và đậm đà tính dân tộc.
2.     Nghệ thuật nguyên thủy
Quá trình lao động săn bắt, hái lượm, luyện kim đã làm phát sinh và phát triển nghệ thuật nguyên thủy. Đề tài chủ yếu là con người và động vật.
Nghệ thuật biểu hiện con người phát triển theo đà phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Ở Đồng Ky (Thái Nguyên) có một số phiến thạch được khắc vẽ hình mặt người có mắt, miệng, sống mũi mang tính ước lệ. Trên vách hang Đồng Nội (Lạc Thủy – Hòa Bình) có bức vẽ 3 mặt người có đầy đủ lông mày, sống mũi, mắt, miệng, mái tóc rẽ đôi có đường môi ở giữa. Mặc dù vẫn mang tính ước lệ nhưng đã nhấn mạnh tính đặc trưng. Ba mặt người khá giống nhau về phong cách, khuôn mặt chữ điền, có lẽ tác giả muốn biểu hiện tính đồng tộc, huyết thống phản ánh trên khuôn mặt.

Đến văn hóa Đông Sơn, hình người trên các đồ đồng rất đa dạng phản ánh nhiều mặt của một xã hội phát triển và nhiều mối quan hệ. Các hình người trên các cán dao găm Làng Vạc (Nghệ An), Thủy Nguyên (Hải Phòng), Đông Sơn (Thanh Hóa), Lãng Ngâm (Bắc Ninh) đã biểu hiện tính đặc trưng cao hơn, khuôn mặt hình trái xoan, thân hình cân đối, ngực nở, bụng thon, trang sức, y phục có lẽ tác giả muốn thể hiện kiểu người mẫu đương thời, đồng thời phản ánh tính tộc người khá phong phú.
Trên thạp đồng Đào Thịnh, một cặp trai gái đang làm tình với nhau. Người con gái được biểu hiện đặc trưng bằng cặp vú, mà nội dung của nó mang tính phồn thực.
Một loại hình nghệ thuật có tính phức tạp hơn là miêu tả con người với thiên nhiên, với động vật. Trên chiếc rìu Đông Sơn mô tả cảnh đi săn bằng thuyền. Đây là một đặc trưng cảnh đi săn trong rừng nhiệt đới. Người đứng trên thuyền cho chó săn vào đuổi hưu nai, chó săn bị hưu nai chống cự. Người trên thuyền xua tay hò hét để thúc giục, cổ vũ làm tăng sức mạnh cho người bạn đường trung thành của mình.
Những cảnh hóa trang bằng lông chim, bông lau trên các đồng đồng Đông Sơn, nhất là trên trống đồng phản ánh hiện thực săn bắt được đưa vào nghệ thuật nhảy múa, có lẽ là sinh hoạt trong lễ hội.
Nghề săn bắt là tiền đề cho nghề chăn nuôi. Những con vật từ hoang thú đã được thuần dưỡng như voi, hổ, rắn trên cán dao găm, những cặp bò trên trống đồng Làng Vạc, Đồi Rú Trăn có một dáng đứng hiền lành, u nổi cao, đây là những động vật thuần dưỡng để làm sức kéo trong nền nông nghiệp dùng cày.

Đề tài nghệ thuật nguyên thủy phổ biến là động vật. Trong thực tế với nghề săn bắt, người nguyên thủy bắt buộc phải quan sát con vật khá kỹ về hình dáng, động tác, phải có cái nhìn rất tinh tế mới có thể thể hiện động vật một cách hiện thực. Trên chiếc rìu đồng phát hiện ở Hương Sơn, Hà Tĩnh, có một đàn có 13 con, mỗi con một tư thế nhưng rất giống nhau về tính cách. Cả đàn cò đang đứng trên bàu nước có cá bơi lội. Những hình ảnh như con chim mỏ dài, mỏ ngắn, cá, rùa, ếch nhái, cá sấu, gà, bò, ngựa thường đi thành cặp đôi, ít khi đi riêng lẻ. Đó là đời sống giữa con đực con cái, trống mái sống gắn bó, thủy chung, bảo vệ nhau trong mọi hoàn cảnh. Nhờ quan sát kỹ lưỡng nên nghệ thuật của người xưa được thể hiện rất sinh động.

Tóm lại mọi động vật đều là đối tượng săn bắt của con người đã đực nghệ thuật hóa mang tính hiện thực và nhân văn cao.
Nghệ thuật phản ánh săn bắt của người nguyên thủy ở Việt Nam cũng giống nghệ thuật hang động của các tộc người trên thế giới.
Ở hang Levanto (Tây Ban Nha) tìm thấy một bức vẽ săn bắn sơn dương bằng cung nỏ. con sơn dương chạy như bay, chân không chạm đất. Levanto nằm dọc bờ biển của bán đảo Pirênây. Cả vùng này đã phát hiện có các bản vẽ tung tự trong 70 hang.
Ở Nam Ô Ran thuộc sa mạc Sahara có một bức vẽ khá sinh động: voi mẹ đang bảo vệ con của mình trước sự đe dọa của con hổ. Bên cạnh có hai con bò rừng sừng cong và dài đang húc nhau.
Ở hang Antaniza (Italia) có bức tranh vẽ một đàn thú trong trạng thái hỗn độn. Nghệ sĩ mô tả kiểu săn bắt bao vây, dồn đàn thú vào thế khó lường.
Nhà khảo cổ I.P. Frăng tơ xép kết luận rằng sự xuất hiện nghệ thuật nguyên thủy phát triển trong quá trình tiến bộ xã hội và lao động. Tư duy và ngôn ngữ phát triển ra nghệ thuật tạo hình hiện thực.
Như vậy, từ Hậu kỳ Đá cũ kéo dài suốt thời đại đồng, nghề săn bắt, săn bắn ở Việt Nam cũng như thế giới nổi trội. Đi theo nó là sự phát sinh, phát triển nghệ thuận phản ánh hiện thực săn bắn.

Tài liệu dẫn
1.     Nguyễn Minh Hiệu, Từ hình tượng thực của con rồng Việt Nam thuở ban đầu đến tên gọi Lạc Long Quân trong tiếng Việt, Tạp chí Khảo cổ học, Số 2, 1983.
2.     Văn Tân, Về vấn đề Tô Tem người Việt, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Số 2, 1959.
3.     Phạm Huỳnh Hương Trang, Rồng và tiên trong lịch sử đồ tượng Việt Nam, Tuổi trẻ chủ nhật, Số 12, 2011.
Đăng tại: Thông báo Khoa học, Số 1 - 2013, tr.16 - 23.




[1] PGS.TS.NGND. Khoa Lịch sử, Trùng ĐH KHXH và Nhân văn, ĐH QGHN

Thứ Ba, 17 tháng 6, 2014

MƯỜI SỰ KIỆN ĐÁNG NHỚ NĂM NHẤT

Thoáng chốc năm nhất đại học đã đi qua thật nhanh như cơn gió thoảng, mới ngày nào còn chập chững bước từng bước ngập ngừng trên sân trường Nhân Văn.
Sau 1 năm SV, có lẽ đáng nhớ nhất là 10 sự kiện này:
1. Đỗ đại học với số điểm 24.5
2. Nhập trường và chính thức bước vào quãng đời SV
3. Sống ở KTX một năm
4. Đạt một số học bổng như: Hoa Trạng Nguyên, Tiếp sức đến trường, Thắp sáng niềm tin
5. Tham gia hoạt động đoàn của chi đoàn và liên chi đoàn
6. Trúng tuyển đội SV Tình nguyện Xung Kích
7. Bắt đầu đọc và tích lũy sách
8. Bắt đầu làm quen với NCKH SV, người đầu tiên giúp đỡ là thày PGS.TS.NGND Hoàng Văn Khoán
9. Kết thúc năm học với kết quả học tập 2,79; được đoàn khen thưởng, được giấy khen của Trường ĐH KHXH & NV, HN
10. Tham gia tiếp sức mùa thi

10 SỰ KIỆN ĐÁNG NHỚ NĂM 2

Như vậy là năm 2 trôi qua thật nhanh tựa như bóng câu bên cửa sổ...
Tổng kết 10 sự kiện năm 2 để sau này đọc lại để nhớ...
1. Chuyển từ KTX ra ở trọ
2. Chuyển từ học tiếng Anh sang học tiếng Trung
3. Có bài viết đăng trên tạp chí Xưa & Nay số 438 (10 - 2014)
4. Buổi đối thoại SV với nhà trường
5. Vượt qua một kỳ học 27 tín chỉ với kết quả không tồi
6. Hoàn thành 2 bài nghiên cứu khoa học SV với kết quả không tồi
7. Tủ sách đã trên 200 đầu sách
8. Có bài viết in trên tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 2, năm 2014
9. Hoàn thành bài viết tham gia hội thảo Thái - Kdai tổ chức vào khoảng tháng 8 - 2014 với sự giúp đỡ của những người đáng kính
10. Một nửa chặng đường đại học đã trôi qua

Đối thoại SV 2014 - bài học lớn

chụp ảnh với chủ tịch hội sử học thế giới GS. Marc Jason Gilbert 

Báo cáo NCKH SV 2014

Sách một tình yêu bao la
Màu áo xanh tình nguyện

Áo xanh một tình yêu

Đại hội đoàn ĐH KHXH & NV, 2014 - 2017
 Những nẻo đường khám phá - Cầu Long Biên

Những nẻo đường khám phá - Sông Hồng

Những nẻo đường khám phá - Về bản Nùng
Tạp chí Xưa & Nay số 438 - bái viết đầu tiên đăng tạp chí

Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 2, 2014 - Bái viết thứ 2 đăng tạp chí


Thứ Hai, 2 tháng 6, 2014

HỌC TRÒ

HỌC TRÒ
Mùa hạ nào trong ta mùa hạ cuối
Khi sân trường xao xác cánh phượng rơi
Đời học trò hỏi làm gì có tuổi
Nên hạ về lại thấy nhớ chơi vơi.

Dù ngày tháng học trò sắp xa rồi
Xin nụ cười hãy đừng tắt trên môi
Cứ vui đi cậu học trò tinh nghịch
Dẫu mai đây mỗi đứa một phương trời.

Dù tương lai có chia lìa đôi ngả
Bạn đi về vùng đất đó rất xa
Nhưng long ta luôn đậm sau nỗi nhớ
Những tâm hồn bé nhỏ nghịch như ma.

Năm tháng học trò cứ thế trôi qua
Chợt boàng hoàng khi cành phượng đã nở
Hẹn gặp lại chẳng biết đến bao giờ
Ta trở về gặp lại những tuổi thơ.

Những tâm hồn bé nhỏ thích mộng mơ
Gửi cho nhau những lời hẹn câu chờ
Ôi sáng nay lòng ta buồn đến lạ
Nhớ sân trường thầy cô cũ sắp xa.

hoa Phượng - hoa học trò
sân trường năm đó

hoa phượng, trang giấy và tuổi trẻ

Ngày 18/01/2012
Lý viết trường
Khoa lịch sử. ĐH khoa học xã hội và nhân văn. ĐH QGHN