“PÂY
TÁI”[1]
CỦA NGƯỜI NÙNG PHÀN SLÌNH DỊP RẰM THÁNG BẢY
NHỮNG
GIÁ TRỊ TỐT ĐẸP CỦA NÓ
Dân
tộc Nùng ở Việt Nam có tổng số 968800 người (2009), đứng thứ bảy trong số 54
dân tộc, còn riêng ở Lạng Sơn là 314295 người chiếm 42,9% dân số toàn tỉnh. Người
Nùng Phàn Sình có rất nhiều nét văn hóa đẹp và đặc sắc như: Trang phục, ngôn ngữ,
phong tục tập quán, tín ngưỡng...
Thiếu
nữ Nùng phàn slình (ảnh sưu tầm)
Người
Nùng Phàn Sình bắt nguồn từ cuộc thiên di lớn từ Vận Thành, Long Châu và Long
Anh thuộc vùng lãnh thổ nam Trung Quốc ngày nay theo hướng tây nam đi vào Việt
Nam, sự phân bố này đã được ổn định.
Văn
hóa là những phong tục tập quán, lối sống, ẩm thực, tín ngưỡng, dân ca, nhà ở,
trang phục... Người Nùng Phàn Sình có nét văn hóa độc đáo đó là lễ hội lồng tồng,
lễ tết, vào nhà mới, cưới hỏi, ma chay...
Người
Nùng có nhiều dịp lễ tết trong năm như: tết Thanh Minh, tết Đoan Ngọ, tết Hàn
Thực, rằm tháng 7[2],
tết Trung Thu… nhưng to nhất vẫn là tết Nguyên Đoán.
Người
Nùng “Pây tái” vào các dịp tết Nguyên Đoán và rằm tháng 7, trong bài viết này
tôi chỉ xin giới thiệu nét đặc sắc của “Pây tái” trong dịp rằm tháng 7.
“Pây
tái” là dịp để con gái lấy chồng xa có dịp quay về thăm bố mẹ đẻ để tỏ lòng
thành kính, thăm lại bạn bè quê hương. “Pây tái” có nhiều ý nghĩa đặc biệt đối
với người Nùng Lạng Sơn, cụ thể:
“Pây tái” để báo hiếu cha mẹ.
Người
con gái lấy chồng xa bố mẹ trong dịp này sẽ có dịp để quay về chăm sóc cha mẹ.
Thông
thường hành trang của người con khi về nhà ngoại thường mang theo gà, vịt hay
rượu để biếu bố mẹ và an hem họ hàng, mang theo chút bánh kẹo cho trẻ con làm
quà.
Trong
dịp này con cái có dịp báo hiếu cha mẹ như giặt giũ quần áo, may vá quần áo cho
bố mẹ để chuẩn bị cho mùa đông đang đến gần và giúp cha mẹ hoàn thành những tâm
nguyện mà cha mẹ muốn nhờ vả.
“Pây tái” để gặp lại bàn bè tri kỷ.
Nhân
dịp rằm tháng bảy những người con gái lấy chồng xa có dịp trở lại nhà mẹ đẻ để
làm chữ hiếu và để được hoàn huyên cùng bạn bè một thời chung chăn chung gối.
Hàn
huyên chuyện cũ (ảnh Kiên Cường)
Những
người con xa quê, những người bạn xa nhau tụ tập lại với nhau nói những câu
chuyện về cuộc sống, về chồng con, về con cái… những câu chuyện cứ kéo dài suốt
ngày không hết.
Giữa
những cuộc nói chuyện như thế có những nụ cười rạng rỡ, có những giọt nước mắt
rơi vì hạnh phúc hay vì khóc cho số phận đau khổ… và chắc chắn sẽ không thể thiếu
được những câu sli câu lượn. Họ hát sli để sống lại cái thời thanh xuân chưa vướng
chuyện chồng con, chỉ có dịp này họ mới lại có dịp trẻ lại bỏ quên mọi sự đời để
sống cho hiện tại mà thôi.
Ý
nghĩa lắm chứ, quanh năm vất vả với bao nhiêu chuyện đồng áng với nỗi lo cơm áo
gạo tiền mà chỉ có dịp này họ mới có cơ hội để nói chuyện với nhau mà thôi.
Hiện
nay tục “Pay tái” của người Nùng phàn slình Lạng Sơn vẫn được lưu truyền và sẽ
mãi được lưu giữ vì những giá trị nhân bản của nó.
Lý
Viết Trường
K57
Lịch sử, Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐHQGHN
Tài liệu tham khảo
1. Thục
Anh (chủ biển), Phong tục cổ truyền người Việt, Nxb Văn hóa thông tin.
2. Nguyễn
Cường, Hoàng Văn Nghiệm, Xứ Lạng – Văn hóa và du lịch, Nxb Văn hóa dân tộc, Bảo
tàng Tổng hợp tỉnh Lạng Sơn, 2000.
3. Nhiều
tác giả, Các dân tộc Tày Nùng ở Việt Nam , Nxb Viện Khoa học xã hội Việt Nam,
Viện Dân tộc học, 1992.
4. Nhiều
tác giả, Văn hóa truyền thống Tày Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc, 1993.
5. Nhiều
tác giả, Giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb
Văn hóa dân tộc, 1996.
6. Nguyễn
Cường, Hoàng Văn Nghiệm, Xứ Lạng – Văn hóa và du lịch, Nxb Văn hóa dân tộc, Bảo
tàng Tổng hợp tỉnh Lạng Sơn, 2000.
7. Ngô
Văn Lệ, Nguễn Văn Tiệp, Nguyễn Văn Diệu, Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam, Nxb Giáo Dục, 1998.
8. Hoàng
Nam, Khía cạnh văn hóa trong tín ngưỡng của người Nùng ở Lạng Sơn, Tạp chí
nguyên cứu văn hóa nghệ thuật, số 4, tr 11 – 13.
9. Hoàng
Nam, Bước đầu tìm hiểu văn hóa tộc người – Văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc,
1998.
10.
Hoàng Nam, Dân Tộc Nùng ở Việt Nam, Nxb
Văn hóa dân tộc, 1992.
11.
Nông Thị Nhình, Âm nhạc dân gian các dân
tộc Tày, Nùng, Dao Lạng Sơn, Nxb Văn hóa dân tộc năm 2000.
12.
Hoàng Văn Páo, Cao Thị Hải, Lễ hội dân
gian dân gian dân tộc tày, Nxb Văn hóa dân tộc, 2012.
13.
Hoàng Quyết, Ma Khánh Bằng, Hoàng Huy Phách,
Cung Văn Lược, Vương Toàn, Văn hóa truyền thống Tày – Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc,
1993.
14.
Vũ Ngọc Khánh, Truyền thống văn hóa các
dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Thanh niên.
15.
Hà Đình Thành chủ biên, Văn hóa dân gian
Tày, Nùng ở Việt Nam, Viện nguyên cứu văn hóa dân gian, 2003.
16.
Hà Văn Thư, Hoàng Nam, Vi Hồng Nhân,
Vương Toàn, Ai lên Xứ Lạng, Nxb Văn Hóa dân tộc, 1994.
17.
Hà Văn Thư, Lã Văn Lô, Văn hóa Tày Nùng,
Nxb Văn hóa, 1984.
18.
Viện dân tộc học, Các dân tộc ít người ở
Việt Nam (các tỉnh phía bắc), Nxb Khoa học xã hội, 1980.
19.
Phạm Vĩnh, Lạn Sơn – Vùng văn hóa đặc sắc,
Nxb văn hóa thông tin, 2001.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét