HÀNH TRÌNH VỀ VỚI VĂN HÓA TÀY - NÙNG
Nhân dịp nghỉ lễ 30/04 –
01/05, này tôi nhận nhiệm vụ tìm hiểu vài nét trong nghi lễ tang ma của người
Tày – Nùng từ người thầy của tôi GS. Hoàng Nam tôi chuẩn bị từ sớm và cùng thằng
bạn cưỡi trên chiếc xe máy bò đi trên con đường Hà Nội – Cao Lộc – Hải Yến –
Cao Lâu. Chuyến đi đã để lại cho tôi nhiều kỷ niệm ấn tượng về một bản người
Tày - Nùng mang tên Cao Lâu.
1. Chuẩn bị hành trang cho chuyến đi
Trước kỳ nghỉ lễ khoảng 10
ngày tôi có dịp vào nhà thầy tôi GS. Hoàng Nam một nhà nghiên cứu bậc nhất về
văn hóa dân tộc Tày – Nùng ở Việt Nam hiện nay. Trong cuộc nói chuyện tôi chủ động
gợi ý với thế về chủ đề tang ma của người Tày – Nùng Lạng Sơn có gì hay để
nghiên cứu không thì thày liền giao ngay cho tôi nhiệm vụ: “Tìm hiểu xem lễ tế minh tinh với tế cây tiền
của người Tày – Nùng giống hay khác nhau”. Tôi nhận lời không một chút ngần
ngại vì nó đúng với sở thích của mình, tuy rất thích thú với nhiệm vụ nhưng tôi
cũng không khỏi lo lắng vì đến giờ tôi vẫn chưa biết như thế nào là tế minh
tinh còn tế cây tiền thì tôi đã từng chứng kiến nên cũng hiểu đôi chút.
Thế rồi tôi tìm kiếm các
sách viết về đám ma của người Tày – Nùng, viết về thầy Tào, thầy mo của người
Tày – Nùng, thật may mắn tôi đã tìm được cuốn luận án mà thày tôi nhắc đến của
TS. Nguyễn Thị Ngân với chủ đề Tang ma của
người Nùng Phàn Slình ở Thái Nguyên lưu tại thư viện trường tôi đại học
Khoa học Xã hội & Nhân văn Hà Nội. Trong tác phẩm này tác giả đồng nhất lễ
tế minh tinh với tế cây tiền và dẫn giải những nghi lễ của tế cây tiền, điều
này càng khiến tôi thêm mung lung. Tôi có gửi email cho thầy tôi mấy lần để hỏi
cụ thể xem tế minh tinh là tế gì, thầy tôi cũng nói là chưa rõ lắm nhưng có thể
tế minh tinh khác với tế cây tiền và động viên tôi cố gắng tìm hiểu cho rõ. Nhận
được sự động viên của thầy, tôi đã bớt lo lắng phần nào.
Chẳng mấy chốc kỳ nghỉ lễ đã
đến, tôi sách ba lô lên vai và cùng thằng bạn thân từ hồi cấp 1 tên Nông Quốc
Cường lên đường về với bản Tày – Nùng nơi biên ải Xứ Lạng.
2. Con đường về bản Tày – Nùng
Từ Hà Nội chúng tôi đi xe
máy ngược lên hướng Đông Bắc theo con đường quốc lộ 1A nhằm hướng Lạng Sơn thẳng
tiến. Trên đường từ Hà Nội lên Lạng Sơn đoạn qua Bắc Ninh và Bắc Giang chẳng có
gì thú vị, hai bên đường toàn nhà cao tầng chẳng khác gì đang ở nội và ngoại
thành Hà Nội.
Nhưng bắt đầu qua khỏi Bắc
Giang để đi vào Lạng Sơn thì cảnh vật bỗng thay đổi một vòng kim đồng hồ, đang
từ những ngôi nhà cao tầng với những cánh đồng thẳng tắp cò bay của Bắc Giang
thì nay khi đến địa phận Lạng Sơn thì mọi chuyện đã thay đổi, những ngọn núi đá
xanh ngút màu na hiện ra đầy sức sống. Nếu ai đó để ý quan sát sẽ phát hiện ra
một điều khá thú vị đó là hai bên đường từ Chi Lăng đến Hữu Lũng một bên là núi
đá, một bên là núi đất. Chẳng biết vì sao tạo hóa lại khéo léo sắp xếp đến vậy,
có lẽ điều đó đã báo hiệu nhiều điều bất ngờ hơn nữa trên mảnh đất Xứ Lạng mà
chúng tôi đang hướng đến.
Hai bên đường từ những ngôi
nhà 2, 3 tầng cứ ngày một ít đi, qua khỏi Hữu Lũng thì những ngôi nhà tầng gần
như mất hẳn mà thay vào đó là những ngôi nhà trình tường thấp lè tè nằm bên những
mỏm đồi cạnh đường. Tôi để ý thấy người dân hai bên đường hâu như chủ yếu là
người Nùng Phàn Slình, họ vẫn mặc áo truyền thống của dân tộc. Đây chính là bản
thí, cư dân ở đây chủ yếu là người Tày – Nùng, họ sống dựa chủ yếu vào kinh tế
nông nghiệp.
Xe chúng tôi tiếp tục chạy
qua bản thí và một khung cảnh khác lại hiện ra một cách bất ngờ, chúng tôi đã đến
Yên Trạch và Mai Pha. Hai xã này nằm gần thị thành phố Lạng Sơn nên kinh tế khá
phát triển, những ngôi nhà tầng chiếm tỷ lệ đáng kể. người dân ở đây sống dựa
vào nông nghiệp và buôn bán nên kinh tế cũng khá giả.
Chúng tôi ngồi nghỉ ở thị trấn
Cao Lộc, sau gần 4 tiếng đồng hồ đi xe máy chúng tôi đã đói và thấm mệt. Chúng
tôi vào một quán phở cạnh ngã ba Cao Lộc ăn, mới húp miếng đầu tiên mà chúng
tôi đều xuýt xoa khen phở ở đây rất ngon, nó khác với phở Hà Nội, ở đây có phở
xương, phở tái, phở gà… và nhất là có thêm món măng ớt để bàn cho dùng miễn
phí. Chính món măng ớt đã để lại trong tôi một ấn tượng khá mạnh, nó có vị cay
cay của ớt, vị hắc của măng, mùi thơm của quả mác mật. Tôi được biết măng ớt
chính là một đặc sản của vùng đất Xứ Lạng.
Sau khi ăn xong bữa trưa xe
chúng tôi lại nhằm theo hướng Hòa Cư – Hải Yến – Cao Lâu, chúng tôi được dự báo
rằng đoạn đường này tuy chỉ dài hơn 20km nhưng sẽ là một thử thách khá khó với
chúng tôi, bởi đoạn đường này nhỏ hẹp độ cua lớn và đã bị xuống cấp nghiêm trọng.
Dù được dự báo trước nhưng
cũng không hề làm chúng tôi nao núng vì nhiệm vụ thầy giao cho tôi bắt buộc phải
hoàn thành, vì niềm yêu thích khám phá trong tôi đã trỗi dậy từ thủa nào, nó
thúc dục tôi mau đi để khám phá những điều kỳ lạ của xứ sở Tày – Nùng.
Thế rồi xe chúng tôi bò chậm
chạp từng chút một trên con đường quanh co này, những ngôi nhà bé nhỏ nằm nép
mình bên những ngọn đồi được phủ kín bởi màu xanh của vườn mận, vườn ngô. Dọc
đường thi thoảng chúng tôi lại gặp một đám trẻ đang chăn trâu, nhìn bọn chúng hồn
nhiên vui đùa cùng lũ bạn trẻ trâu mà tôi thấy thèm cảm giác được chơi, được sống
gần gũi với thiên nhiên.
Thôn Hòa Cư để lại trong tôi
ấn tượng mạnh về những ngọn đồi được đồng bào khai phá làm rẫy trồng ngô, những
ngọn đồi thấp được bao bọc bởi màu xanh mơn mởn của vườn ngô trông thật đẹp.
Nương
rẫy của đồng bào Tày – Nùng ở Hòa Cư
Sẽ có người phàn nàn: “Đây là phá rừng chứ tốt đẹp gì mà ca ngợi chứ”
và tôi sẽ thưa như này thì bạn sẽ hiểu ngay thôi: “Những ngọn đồi này trên đỉnh vẫn trồng cây lâu năm và những nương rẫy
này được làm theo kiểu bậc thang có tác dụng giữ đất rất tốt”. Tôi nhanh
tay cầm lấy máy ảnh, vừa đi vừa chụp để lưu giữ lại những bức ảnh trên con đường
vào bản Tày - Nùng.
Qua xã Hòa Cư chúng tôi đến
với xã Hải Yến, một xã được nhiều người biết đến vì ở đây còn giữ được khá tốt
phong tục tập quán của người Nùng. Tôi bắt gặp bên kia trên một cánh đồng có
khoảng gần chục người đang cấy, điều này khiến tôi nhớ đến tục trợ giúp nhau
trong ngày mùa của người Nùng, đây là một phong tục tốt đẹp không những có tác
dụng về kinh tế mà còn có tác dụng trong việc xây dựng tình đoàn kết hàng xóm
láng giềng.
Hai bên đường tôi cũng bắt gặp
một cảnh tượng rất thi vị, đó là cảnh hai tốp người đang cấy ở hai cánh đồng
bên suối đang hát sli lượn đối đáp với nhau, những câu sli ngày mùa giúp cho đồng
bào quên đi mệt mỏi. Đã có thời những câu sli có nguy cơ mai một nhưng mấy năm
gần đây cùng với sự quan tâm của các cấp có chính quyền nhất là sở văn hóa nên
những câu sli đã lại xuất hiện nhiều hơn trên bản làng của người Nùng Phàn
Slình ở Hải Yến.
Hải Yến còn nổi tiếng với tục
múa sư tử, tục múa sư tử thế hiện tinh thần thượng võ của đồng bào Tày – Nùng
được hình thành trong quá trình lịch sử chống giặc ngoại xâm và đánh phỉ giữ
bình yên cho bản làng. Đồng bào quan niệm nơi nào có tiếng trống, tiếng chiêng,
tiếng là và chũm chọe thì nơi đó sẽ bình yên và làm ăn thuận lợi. Cũng có lúc
múa sư tử tưởng chừng không còn ai thích thú, nhưng hiện nay có hội thi múa sư
tử nên xã đã quan tâm phục hồi lại được rất nhiều trò diễn cổ như: nhảy bàn, nhảy
lửa, báo đông, nả lình…
Đích đến cuối cùng của chúng
tôi chính là thôn bản Vàng, xã Cao Lâu. Cuối cùng con đường vòng vèo, đầy ổ gà
cũng lùi lại đằng sau và thôn bản Vàng đã hiện ra trước mắt chúng tôi. Thoạt đầu
chúng tôi thấy hình như thôn bản Vàng vẫn còn lác đác mấy ngôi nhà trình tường
xen giữa những ngôi nhà gạch kiên cố, nhà trình tường là một công trình nghệ
thuật thể hiện tình độ sáng tạo và tư duy thích ứng với thiên nhiên nhạy bén của
đồng bào.
Ngôi nhà chúng tôi tìm đến
là nhà ông Hoàng Minh Kai cựu chiến binh đã từng tham gia vào cuộc kháng chiến
chống Mỹ ở chiến trường miền Nam. Nhà ông nằm ngay trên đường cái, ông đón tôi
với nụ cười trên môi và mời chúng tôi vào nhà như gặp lại người bạn tri kỷ. Vào
đến nhà ông liền rót ly rượu ra mời chúng tôi, người Tày – Nùng rất hiếu khách,
khi nhà có khách vào thăm, không kể là ai họ đều rất niềm nở đón tiếp. Uống
xong ngụm nước ông mới từ từ hỏi, các cháu hôm nay vào đây tìm ai, tôi trình
bày lý do hôm nay đến với mong muốn tìm gặp ông thầy Tào ở thôn này, nghe đến
đây ông trả lời nhanh: “Ông ấy tên Hoàng
Kim Toàn là người thân của ông, nhà ngay dưới này, các cháu cứ uống nước đã rồi
tí ông sẽ nhờ Hoàng Minh Đức dẫn xuống, yên tâm đi”. Được lời như cởi tấm
lòng, chúng tôi mở lời nhờ ông dẫn xuống nhà ông Toàn.
Cuộc
nói chuyện về văn hóa Tày - Nùng
Ông Đức dẫn chúng tôi xuống
nhà ông Toàn. Khi chúng tôi vừa bước vào nhà ông Toàn liền mời chúng tôi ngồi
xuống ghế, pha chè và hỏi ngay: “Các cháu
tìm ông có chuyện gì, nói xem ông có giúp được gì không”. Ông Đức nhanh miệng
nói giúp chúng tôi: “Các cháu hiện tại
đang là sinh viên có mong muốn tìm hiểu một vài điều liên quan đến nghi lễ tang
ma của người Tày mình, tôi biết ông nắm rõ cái này, ông cố gắng giúp các cháu với
nhé”, vốn tính thân thiện ông Toàn cười nói: “Các cháu là sinh viên có lòng đam mê văn hóa dân tộc như thế thì ông sẽ
giúp đỡ nhiệt tình, chỉ bảo những gì ông biết, chỉ bảo các cháu cũng là trách
nhiệm của ông trong việc giữ gìn phong tục tập quán của người Tày mình mà”.
Được các cụ tạo điều kiện
tôi liền vào ngay mục đích, tôi hỏi ông năm nay bao nhiêu tuổi, số năm làm thầy
Tào là bao nhiêu… rồi hỏi ông trong nghi lễ tang ma lễ tế minh tinh là gì, lễ tế
cây tiền là gì, giữa hai nghi lễ này giống hay khác nhau về nội dung hay ý
nghĩa không ? Tiếp đó ông Toàn cùng ông Đức chia sẻ với chúng tôi rằng hiện nay
ở xã Cao Lâu những nét văn hóa đã mất dần vì lớp trẻ không còn thiết tha với
văn hóa cha ông. Ông Toàn nói rằng hiện nay ông muốn thu nhận “Đệ tử” để truyền nghề làm tào, ông than:
“Nếu cứ kiểu này chẳng bao lâu nữa nghề
làm tào sẽ thiếu người làm, bởi nhiều người có căn tào cũng không chịu học nghề”.
Cùng với nghề tào thì các làn điệu dân ca cổ như hát then, sli, hát lượn, hát cỏ
lảu, phát sỏi, múa sư tử… đã ít khi xuất hiện trên bản làng người Tày – Nùng,
hiện nay chỉ còn một ít lớp người ở lứa tuổi trung niên và người già.
Câu chuyện giữa tôi và ông
Toàn kéo dài gần 3 tiếng, những thắc mắc của tôi đã cơ bản được giải quyết.
Chia tay ông mà lòng tôi thầm vui mừng vì nhiệm vụ của thầy giao cho đã được
hoàn thành.
Quyển
sổ ghi chép nghi lễ thực hiện trong đám tang của thày Tào người Tày
3. Một vài suy nghĩ
Một chuyến đi đã để lại cho
tôi rất nhiều điều bất ngờ và kỷ niệm đẹp, đồng bào Tày – Nùng ở đây rất nhiệt
tình và niềm nở đón tiếp khách đến chơi. Mặc dù cuộc sống nơi đây còn rất
nghèo, đa số đồng bào nơi đây vẫn ở nhà trình tường và một số ít ở nhà bê tông
nhưng họ vẫn sẵ sàng dành cho khách những thứ ngon nhất.
Các bản làng hiện nay vẫn
còn giữ được khá nhiều nét văn hóa cổ truyền như ma chay, cười xin, lễ hội… những
người trung niên vẫn mặc quần áo truyền thống. Tuy nhiên thế hệ trẻ hiện nay có
phần nào thờ ơ với văn hóa truyền thống, họ chưa hiểu được hết những giá trị
văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình.
Thiết nghĩ trách nhiệm tuyên
truyền phổ biến và giáo dục cho thế hệ trẻ nhận thức được tầm quan trọng của
văn hóa dân tộc thuộc về cơ quan có thẩm quyền và những người hiểu biết. Hiện
nay sở văn hóa tỉnh đã có một vài chính sách quan tâm đến lưu giữ và phát huy
văn hóa tuy nhiên vẫn còn quá nhỏ và chưa thực hiện rộng rãi, hình thức còn đơn
điệu nên không thu hút được sự quan tâm của giới trẻ.
Nhờ những chuyến đi thực tế
như chuyến đi ngày hôm nay đã giúp tôi hiểu hơn được văn hóa của các dân tộc nhất
là văn hóa Tày – Nùng, những mảnh đất mà tôi đi qua luôn nồng nhiệt đón khách
và những con người tôi gặp vẫn luôn mang trong mình niềm say mê với vốn văn hóa
cổ. Chính họ là những người tiên phong trong công việc bảo tồn văn hóa nếu được
tạo điều kiện và chỉ bảo phương pháp từ cơ quan chức năng.
Lý Viết Trường
Lạng Sơn, Ngày 02/05/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét