Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2013

TÂM THẾ NGƯỜI VIỆT TRƯỚC BIỂN ĐÔNG TẢN MẠN DƯỚI VÀI CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ

TÂM THẾ NGƯỜI VIỆT TRƯỚC BIỂN ĐÔNG
TẢN MẠN DƯỚI VÀI CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ
Nước Việt trải qua ngàn năm lịch sử từ Văn Lang – Âu Lạc đến Đại Việt rồi Việt Nam luôn luôn phải đương đầu với giặc xâm lăng và thiên tai lũ lụt bởi nước Việt ngoài đường biên giới trên đất liền còn có 3200 km đường bờ biển.
Từ khi Nguyễn Ánh[1] lên ngôi đã lập tạo nên một chữ S Việt Nam từ cao nguyên đá Đồng Văn đến mũi Cà Mau đầy nắng gió biển khơi. Người mẹ Việt Nam từ thủa khai sinh đã luôn hiền từ ôm trọn hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ trải dài từ vịnh bắc bộ và phủ kín lấy quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa từ thủa nào.
Có một câu chuyện trong muôn vàn câu chuyện mà tôi với các bạn vẫn thường đem ra bàn với nhau trong những giờ rảnh rỗi đó là “Nước Việt hướng biển hay quay lưng lại với biển đông[2] câu trả lời sẽ chỉ có một mà thôi, cụ thể:
1.      Câu chuyện cổ tích “Con rồng cháu tiên”.
Khi xưa mẹ Âu Cơ sinh trăm con, 50 con theo cha lên rừng 50 con theo mẹ xuống biển[3] rồi khai sinh lập địa ra đất nước Việt Nam như ngày hôm nay.
Câu chuyện cổ tích Con rồng cháu tiên là niềm tự hào của biết bao thế hệ người Việt, đồng thời câu chuyện cũng chứa đựng đầy tính triết lý, cụ thể:
Hình ảnh Lạc Long Quân khỏe mạnh, khôi ngô tuấn tú vốn là thần, là người trên cạn đại diện cho thành phần “Săn bắt”[4] mà săn bắn thì cần sức khỏe là sự nhanh nhẹn nên thường phù hợp với người đàn ông.
Hình ảnh mẹ Âu Cơ xinh đẹp, hiền hậu vốn là tiên là thành phần đại diện cho “Hái lượm” mà hái lượm thì cần sự tỉ mỷ, nhẫn nại nên phù hợp với người phụ nữ.
Hai con người đại diện cho hai thuộc tính gặp nhau rồi kết duyên và sinh ra bọc trăm trứng. Hai thành phần hợp lại thành một đất nước, đất nước nông nghiệp với kinh tế chính là săn bắt và hái lượm.
Rõ ràng 50 con theo mẹ Âu Cơ xuống biển chính là thể hiện ý thức tiến ra biển, khai thác biển và chiếm giữ biển đông. Chủ quyền trên biển đông của ta đã được khẳng định từ trong những câu chuyện cổ tích.
2.      Cột đá chùa Dạm và dấu ấn biển[5].
Chùa Dạm, hay chùa Rạm,[1] tên chữ là Đại Lãm Thần Quang tự, hay còn gọi là chùa Bà Tấm, chùa Cao, chùa Trăm Gian (vì ngày xưa chùa có 100 gian nhưng không phải chùa Trăm Gian thuộc địa phận Hà Nội), cũng được gọi là chùa Lãm Sơn, theo tên núi. Chùa dựa vào núi Dạm, nhìn về phía sông Đuống, ngày xưa thuộc xã Lãm Sơn Trung, tổng Lãm Sơn Nam, huyện Quế Dương, nay là xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, là đại danh lam từ thời Lý và là một di tích quan trọng của tỉnh Bắc Ninh ngày nay với lịch sử gần 1.000 năm.
Trên đá xây có chạm hoa văn sóng nước, nét hoa văn to nổi khối, do chạm sâu. Trên nền tầng này, ở khoảng giữa ba lối cửa, bên phải chùa có khu đất vuông, cạnh 7 m, cao 2 m, kè đá chạm văn sóng nước thời Lý.
Hình ảnh
Cột đá Chùa Dạm
Hình ảnh
Dấu tích chân tháp nằm ở phía đối diện với cột đá
Đối diện với khu đất vuông này qua lối cửa giữa, bên trái cũng có một khu đất nổi, nhưng hình tròn đường kính khoảng 4,5 m, cao 1 m, cũng kè đá chạm hoa văn sóng nước Lý.
Hoa văn sóng nước chính là ý thức biển của người chăm, trên thân lại có tạc hình rồng thời Lý[6]. Ở cây cột đá có sự hòa quện giữa văn hóa Việt và văn hóa Chăm rõ nét.
Chính ý thức biển (những hình sóng nước) đã phần nào nói lên tư duy biển rất mạnh của người Chămpa. Đây là một ví dụ điển hình trong việc góp phần khẳng định người Việt[7] có tư duy hướng biển hay đông tiến.
3.      Nhà Nguyễn và Hải đội Hoàng Sa.
Đội Hoàng Sa, hay Hải đội Hoàng Sa, là tên gọi chung của đội tàu hàng hải do chính quyền chúa Nguyễn xứ Đàng Trong lập ra từ thế kỷ 17 với mục đích ban đầu là hàng năm đi thuyền từ Quảng Ngãi ra các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa để khai thác hải sản và thu nhặt các hàng hóa do các tàu buôn bị đắm và trôi dạt vào các đảo này.
Công việc chính của hải đội Hoàng Sa là “Mỗi năm luân phiên nhau đi, tháng giêng nhận giấy làm sai dịch, được cấp phát mỗi người sáu tháng lương, chèo năm chiếc thuyền câu nhỏ ra ngoài biển, phải mất ba ngày ba đêm mới đến đảo. Ở đó họ tha hồ bắt chim, bắt cá mà ăn. Họ thu được những đồ vật của tàu (bị đắm) như gươm và ngựa bằng đồng, hoa bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng, thiếc khối, chì, súng, ngà voi, sáp ong vàng, chiêng, đồ sứ,...Họ còn lượm thật nhiều vỏ đồi mồi, hải sâm và hạt ốc vân. Đến tháng 8 thì họ trở về, và cửa Yêu rồi tới thành Phú Xuân để nạp các thứ lượm được. Sau khi cân, phân loại và định giá mới cho họ bán riêng vài thứ như ốc vân, hải ba và hải sâm. Xong, họ được lãnh bằng để về nhà, những thứ lượm được khi nhiều, khi ít không nhất định, có lần họ cũng phải về không”[8].
Từ thế kỷ 17 các chúa Nguyễn ở đàng trong và sau này là nhà Nguyễn vẫn luôn luôn có ý thức, khẳng định và khai thác chủ quyền ở hai quân đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự khẳng định này diễn ra ổn định và kéo dài đến khi nhà Nguyễn bị thực dân phương tây và Pháp gây hấn rồi chính thức nổ súng xâm lược bán đảo Sơn Trà Đà Nẵng khiến hải đội không có điều kiện hoạt động thì hải đội mới giải tán.
Chính những hành động này của các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn đã khẳng định rằng nước Việt không hề quay lưng lại với biển mà luôn luôn ý thức được quyền và trách nhiệm của mình trong việc chiếm hữu và khai thác biển đông.
4.      Sự kiện Vịnh Bắc Bộ.
Ngày 08/1963, nhằm mục đích tạo ra cái cớ để tiến đánh miền Bắc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nên Mỹ đã tạo dựng nên sự kiện Vịnh Bắc Bộ hòng che mắt thế giới và tiến ra miền Bắc hợp pháp.
Hình chụp từ tàu USS "Maddox" hiển thị ba tàu ngư lôi miền Bắc Việt Nam
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ đã khẳng định quyết tâm bám biển, giữ biển bằng bất cứ giá nào dù có phải hi sinh cả tính mạng của mình. Thực tế đã chứng minh không phải lúc nào kẻ mạnh cũng chiến thắng mà chiến thắng thường thuộc về chân lý. Sự kiện Vịnh Bắc Bộ đã khiến cho hải quân Việt Nam tổn thất nặng nề nhưng họ không hề nản chí mà tinh thần Vịnh Bắc Bộ sẽ, đã và mãi là bài học là tấm gương để con cháu sau này noi theo.
5.      Kết luận.
Qua những sự kiện lịch sử kể trên đã phần nào khẳng định rằng người Việt không những không quay lưng lại với biển mà còn luôn luôn ý thức phải hướng biển và khai thác biển.
Ý thức được điều đó lớp lớp những thế hệ thanh nhiên chúng ta phải cùng nhau có trách nhiệm giữ và quyết không để mất một tấc đất của tổ tiên để lại.
Lý Viết Trường
K57, lịch sử, ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn, HN
SDT: 01636.302.985



[1] Năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi đã thống nhất Việt Nam thành hình thù chữ S như ngày hôm nay.
[2] Thực tế hiện nay có nhiều tác giả, nhiều quan điểm cho rằng người Việt có tư duy hướng nội, gần rừng xa biển…
[3] Có thể khẳng định đây chính là quá trình đông tiến, tiến về biển của người Việt.
[4] Để hình thành một xã hội thì hai yếu tố quan trọng nhất là Săn bắt và hái lượm.
[5] Trong bài này tôi không đi sâu mô tả về đặc điểm của cột đá mà chỉ đi vào phân tích hình ảnh sóng nước xung quanh cột đá.
[6] Đoạn dưới phần trụ tròn này chạm nổi đôi rồng phong cách thời Lý đầu vươn cao chầu vào viên ngọc tỏa sáng, thân quấn quanh cột, đuôi ngoắc vào nhau. Hình dáng rồng giống dạng rồng rắn thời Lý với mào bốc lửabờm thành búi như cờ đuôi nheo bay lướt, thân tròn lẳn uốn khúc thoăn thoắt, chân chim năm móng. Đôi rồng nổi bật giữa các hoa văn phụ hình hoa dây móc, tinh xảo. Thân rồng to, mập uốn khúc quanh cột. Hai chân phía trước của rồng có móng sắc, nhọn, giơ cao nâng viên ngọc dưới cằm.
[7] ở đây là sự kết hợp giữa Đại Việt, Chăm Pa, Phù Nam (óc eo).
[8] Theo Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn - NXB Giáo dục 2007, tập 2, trang 148.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét